1001 câu ca dao hay quê hương, đất nước và lịch sử Việt Nam

ca dao quê hương đất nước

Thăng Long Hà Nội đô thành
Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ
Cờ đỏ rồi lại tân đô
Nghìn năm văn vật bây giờ là đây.

——

Rủ nhau chơi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Bài, Hàng Khay
Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày
Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn
Phố Mới, Phúc Kiến, Hàng Than
Hàng Mã, Hàng Mắm, Hàng Ngang, Hàng Đồng
Hàng Muối, Hàng Nón, Cầu Đông
Hàng Hòm, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Bè
Hàng Thùng, Hàng Bát, Hàng Tre
Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà
Quanh đi đến phố Hàng Da.

——

Trải xem phường phố, thật là cũng xinh
Phồn hoa thứ nhất Long Thành
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ
Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền.

——

Nhắc trông lên chốn kinh đô
Kìa đền Quan Thánh, nọ hồ Hoàn Gươm.

——

Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?

——

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

——

Ổi Quảng Bá, cá hồ Tây
Hàng Đào to lụa làm say lòng người.

——

Bóng đèn là bóng đèn hoa
Ai về vùng Bưởi với ta thì về.

——

Vùng Bưởi có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề seo can.

——

Ai qua phố Nhổn, phố Lai
Dừng chân ăn miếng chả dài thơm ngon
Ngọt thay cái quả cam tròn
Vừa thơm vừa mát hãy còn ở Canh.

——

Gắng công kén hộ cốm Vòng
Kén hồng Bạch Hạc cho lòng ai vui.

——

Thanh Trì có bánh cuốn ngon
Có gò Ngũ Nhạc có con sông Hồng
Thanh Trì cảnh đẹp người đông
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.

——

Đầm Đại Từ Hoa sen thơm ngát
Giếng Đại Từ nước mát trong xanh.

——

Dòng Tô uốn khúc lượn quanh
Đất nuôi trẻ nhỏ lừng danh trong ngoài.

——

Sông Tô nước chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa
Thon thon hai mũi chèo hoa
Lướt đi lướt lại như là lướm bay.

——

Lụa này thật lụa Cổ Đô
Chính tông lụa cống, các cô ưa dùng.

——

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.

——

Đường về xứ Lạng mù xa
Có về Hà Nội với ta thì về
Đường thủy thì tiện thuyền bè
Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang.

——

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Em lên xứ Lạng cùng anh.

——

Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mảng vui quên hết lời em dặn dò.

——

Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi Thành Lạng, kìa sông Tam Cờ.

——

Trên rừng ríu rít chim kêu
Cửa lò róc rách suối reo đêm ngày
Thương nhau ta đứng ở đây
Nước non là bạn, cỏ cây là tình.

——

Bắc Cạn có suối đãi vàng
Có hồ Ba Bể có nàng áo xanh.
Bưởi Chi Đán, quít Đan Hà
Cà phê Phủ Hộ, đồi trà Thái Ninh.

——

Sông Lô một dải trong ngần
Thảnh thơi ta rũ bụi trần cũng nên.

——

Sông Thao nước đục người đen
Ai lên phố Ẻn cũng quên đường về.

——

Mẹ em buôn chỉ bán tơ
Buôn ngọn sông Bờ, bán ngọn sông Thao
Nước sông Thao biết bao giờ cạn
Núi Ba Vì biết vạn nào cây?
Nào nhà anh tú đâu đây.

——

Ai qua núi Tản sông Đà
Ghé qua Tu Vũ mặn mà tình thương.

——

Bối Khê, Tiên Lữ, chùa Thầy
Đẹp thì tuyệt đẹp, chưa tày chùa Hương.

——

Cách sông cách nước thì thương
Cách quê, cách quán nhớ tương Cự Đà.

——

Sông Thương nước chảy đôi dòng
Trai quên vợ, gái quên chồng thì lên.

——

Núi Đọi ai đắp mà cao
Ngã ba sông Lệnh ai đào mà sâu.

——

Rẽ, Guột ai bắc nên cầu
Con sông Lục Đầu ai chở đò ngang?

——

Hỡi cô thắt đai lưng xanh
Có về Nam Định với anh thì về
Nam Định có bến đò Chè
Có tàu ngô khách, có nghề ươm tơ.

——

Anh đi anh nhớ non Côi
Nhớ dòng sông Vị, nhớ người tình chung
Quản bao non nước ngại ngùng
Lấy ai san sẻ gánh gồng đường xa.

——

Sông Tuần một dải nông sờ
Hàm Rồng một dãy lỡ mờ núi cao
Vui thay, núi thẳm sông sâu
Thuyền đi hai dây như sao hôm rằm.

——

Cầu Quan vui lắm ai ơi
Trên thì chợ họp, dưới bơi thuyền rồng.

——

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

——

Khi nào Bến Thủy hết đò
Đô Lương hết gạo, ta hết cầu duyên em.

——

Đông Thành là mẹ là cha
Đói cơm rách áo thì ra Đông Thành.

——

Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc lụa chợ Hạ, uống nước chè Hương Sơn.

——

Đức Thọ gạo trắng nước trong
Ai về Đức Thọ thong dong con người.

——

Nước giếng Vàng vừa trong vừa mát
Nâu chợ Chùa, nhuộm lại lâu phai
Cá cửa Nhượng, khoai Mục Bài
Khuyên ai về huyện Cẩm, kẻo một mai tiếc thầm.

——

Đất Thừa Thiên trai hiền gái lịch
Non xanh, nước biếc, điện ngọc, đền rồng.

——

Tháp bảy tầng, Thánh miếu, chùa Ông
Chuông khuya Diệu Đế, trống rung Tam Tòa
Cầu Trường Tiền mười hai nhịp bắc qua
Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ đợi khách âu ca thái bình.

——

Núi Truồi ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu.
Nông tằm, ao cá, nương dâu
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò.

——

Đông Ba, Gia Hội, hai cầu
Có chùa Điệu Đế bốn lầu hai chuông.

——

Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá
Đò từ Vĩ Dạ, thẳng ngã ba Sinh
Lờ đờ bóng ngả trăng chênh
Tiếng hò xa vọng, nặng tình nước non.

——

Hồ Tĩnh Tâm giàu sen bách diệp
Đất Hương Cần ngọt quít, thơm cam
Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Đợi đây về với một đoàn cho vui.

——

Học trò trong Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế mà đi không đành.

——

Ra về nhớ đến chợ Cuồi
Nhớ làng Thanh Thủy, nhớ người Lệ Sơn.

——

Rằng xa, cửa ngõ cũng xa
Rằng gần, Vĩnh Điện, La Qua cũng gần.

——

Chiều chiều mây phủ Sơn Trà
Sóng xô cửa Đại trời đà chuyển mưa.

——

Hải Vân bát ngát nghìn trùng
Hòn Hồng ở đấy là trong vịnh Hàn.

——

Quảng Nam có núi Ngũ Hành
Có sông Chợ Củi có thành Đông Dương.

——

Quê ta có dải sông Hàn
Có Chùa Non Nước, có hang Sơn Trà.

——

Đất ta, bể bạc, non vàng
Bể bạc Nam Hải, non vàng Bồng Miêu.

——

Trà Linh nước chảy đầm đầm
Cá đua dưới vực, rồng nằm Đinh Ông.

——

Ai về nhắn với họ Nguồn
Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên.

——

Ai về Tuy Phước ăm nem
Ghé qua Hưng Thạnh mà xem tháp Chàm.

——

Bình Định có núi Vọng Phu
Có đầm Thị Nại, có cù lao xanh
Em về Bình Định cùng anh
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa.

——

Tam Quan tốt đất trồng dừa
Nam thanh nữ tú cho vừa ý anh.

——

Trăng rằm mười tám trăng treo
Anh đóng giường lèo cưới vợ Nha Trang.

——

Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng.

——

Nồi đồng lại úp vung đồng
Con gái xứ Bắc lấy chồng Đồng Nai.

——

Hết gạo thì có Đồng Nai
Hết củi thì có Tân Sài chở vô.

——

Nhà Bè nước chảy phân hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.

——

Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm.

——

Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm.

——

Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân
Anh thương em chẳng ngại xa gần
Quít hồng vài chục, đôi cân trà tàu.

——

Ai đua sông Trước thì đua
Sông Sau cối miếu thờ vua thì đừng.

——

Chẻ tre bện sáo cho dày
Ngăn ngang sông Mỹ có ngày gặp nhau.

——

Đất Châu Thành anh ở
Xứ Cần Thơ no em về
Bấy lâu sóng cạn biển kề
Phần tay mái trước (trúc) dầm dề hột châu.

——

Ngó qua bên cạnh Tô Châu
Thấy em gánh nước trên đầu giắt trâm.

——

Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giỗ Tổ tháng ba mồng mười
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ về giỗ Tổ mồng mười tháng ba.

——

Nhớ xưa đường thuở triều Hùng
Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng này ra kì tài
Lên ba đang tuổi anh hài
Roi ngà ngựa sắt ra oai trận tiền
Một phen khói lửa đẹp yên
Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời.

——

Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé thăm phong cảnh Loa Thành Thục Vương
Cổ Loa hình ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây.

——

Ru con con ngủ cho lành
Cho mẹ gánh nước rửa hành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.

——

Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân.

——

Sa Nam trên chợ dưới đò
Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dựng binh.

——

Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan
Cao nhất là núi Lam Sơn
Có ông Lê Lợi trong ngàn tiến ra.

——

Non xanh nước biếc hữu tình
Lúa đồng bát ngát rung rinh bốn mùa
Đền làng thờ đức vua Lê
Ngắm nhìn núi Cõi khác chi con rồng
Vòn thêm một dải uốn cong
Kìa con Thiên mã đang lồng về Nam
Một dòng nước nhỏ xanh lam
Một ngôi chùa nhỏ nằm ngang lưng đồi.

——

Nhất vui là hội Trần Thương
Đủ đình, đủ đám thập phương tiếng đồn.

——

Ai lên Biện Thượng, Lam Sơn
Nhớ Lê Thái Tổ chặn đường quân Minh.

——

Nhong nhong ngựa Ông đã về
Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa Ông ăn.

——

Lạy Trời cho cả gió lên
Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành.

——

Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Con bế, con bồng, con dắt, con mang
Bò đen húc lẫn bò vàng
Hai con húc chắc, đắm quãng xuống sông
Thằng bé chạy về báo ông:
“Bò đen ta ngã xuống sông mất rồi”.

——

Trạng chết, chúa cũng thăng hà
Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn.

——

Chiều chiều én liệng truông Mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành.

——

Bần gie đóm dặn sáng ngời
Ra oai một trận muôn đời lừng danh.

——

Thùng thùng trống đánh quân sang
Chợ Già trước mặt, quán Nam bên đàng
Qua Chiêng thì rẽ về Giàng
Qua quán Đông Thổ vào làng Đình Hương
Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuộc mà thương mẹ già.

——

Đống Đa ghi để lại dây
Bên kia Thanh miếu, bên này Bộc am.

——

Trên trời có ông sao Tua
Ở làng Minh Giám có vua Ba Vành.

——

Gò Công anh dũng tuyệt vời
Ông Trương “đâm lá tối trời” đánh Tây.

——

Vĩnh Long có cặp rồng vàng
Nhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan Tuấn Thần.

——

Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu
Ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm
Ai nhớ ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.

Đánh giá post này: